admin@phapluatdansu.edu.vn

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN: AI ĐẠI DIỆN NGƯỜI TÂM THẦN KHI LY HÔN?

HOÀNG YẾN

Khi giải quyết án ly hôn mà một bên đương sự là người bị bệnh tâm thần, nhiều tòa gặp lúng túng trong việc xác định người giám hộ cho người bệnh. Có chuyện này bởi luật pháp chưa có quy định điều chỉnh…

Gần đây, chị NTV đã nộp đơn ra TAND TP.HCM xin ly hôn với người chồng đang mắc bệnh tâm thần. Trong đơn, chị V. trình bày rằng vợ chồng chị kết hôn từ năm 2005. Ba năm sau, trong một vụ tai nạn giao thông, chồng chị bị thương nặng ở đầu, từ đó mất ý thức, phải nhập viện điều trị tâm thần dài hạn. Hiện nay đời sống hôn nhân của chị là không thể duy trì nên chị muốn được ly hôn để ổn định lại cuộc sống sau này…

Tự quyết định mọi thứ, có công bằng?

Thụ lý, TAND TP đang băn khoăn về hướng giải quyết. Có ý kiến nói tòa nên yêu cầu chị V. tiến hành làm thủ tục tuyên bố chồng chị mất năng lực hành vi dân sự vì bị bệnh tâm thần. Khi yêu cầu này được tòa án có thẩm quyền chấp nhận, TAND TP sẽ tiến hành giải quyết vụ ly hôn của chị. Lúc này, chị V. vừa là nguyên đơn, đồng thời cũng vừa là người đại diện theo pháp luật cho bị đơn – chồng chị.

Ý kiến này đã vấp phải sự phản đối bởi lẽ nếu làm như vậy, chị V. sẽ được tự ý quyết định tất tần tật mọi thứ, kể cả tài sản và con chung. Điều này không đảm bảo công bằng, có khả năng gây thiệt thòi cho người chồng đang bị tâm thần, vốn có quyền lợi đối lập với chị trong vụ ly hôn. Giả sử nếu mai này người chồng khỏi bệnh thì sao?

Cần hướng dẫn hợp lý

Theo luật, người mắc bệnh tâm thần không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình được xem là người mất năng lực hành vi dân sự (trên cơ sở phán quyết của tòa theo yêu cầu của người có quyền lợi liên quan). Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự do người giám hộ xác lập, thực hiện. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tại tòa án cũng do người giám hộ thực hiện.

Continue reading

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI MỞ THÊM MÃ NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

LƯỢM LẶT –  Theo thông tin chính thức trên cổng thông tin Bộ Tư pháp và Đại học Luật Hà Nội, Trong năm học 2011 – 2012, bên cạnh mã ngành luật hiện có, Đại học Luật Hà Nội (HLU) chính thức mở thêm mã ngành Luật thương mại quốc tế. Việc xây dựng trường Đại học Luật Hà Nội trở thành cơ sở đào tạo đa ngành trong lĩnh vực pháp lý là một yêu cầu khách quan từ nhu cầu đa dạng của thị trường nhân lực trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường.

Sinh viên theo học Ngành Luật Thương mại Quốc tế tại HLU sẽ có thời gian đào tạo là 4 năm và được cấp bằng bằng cử nhân Ngành Thương mại Quốc tế khi tốt nghiệp. Mục tiêu đáp ứng yêu cầu về nhân lực cho các đơn vị về hợp tác quốc tế, pháp luật quốc tế hoặc pháp chế của các Bộ, ngành và các cơ quan Nhà nước; các cơ quan thông tin đại chúng như đài truyền hình, đài phát thanh, các toà soạn báo, tạp chí; các trường đại học, các viện nghiên cứu; các tổ chức Quốc tế, các tổ chức liên Chính phủ tại các nước và tại Việt Nam; các công ty luật chuyên về pháp luật quốc tế, các công ty luật nói chung, các tổ chức trọng tài thương mại; các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, nhất là các công ty có hoạt động thương mại quốc tế; các toà án.

Chương trình đào tạo Ngành Luật Thương mại Quốc tế được HLU xây dựng trên cơ sở tham khảo chương trình đào tạo tiên tiến ở các nước trên thế giới (Hoa Kỳ, Anh quốc, Australia, Singapore), theo hướng đạt chuẩn quốc tế, đảm bảo trang bị kiến thức có hệ thống và chuyên sâu về pháp luật thương mại quốc tế trên nền tảng pháp luật cơ bản; có kiến thức tiếng Anh chuyên ngành cần thiết để làm việc trong lĩnh vực liên quan đến pháp luật thương mại quốc tế, đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập của đất nước. Một số môn học được giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh.

HLU cũng cho rằng, chương trình đào tạo đại học Ngành Luật Thương mại Quốc tế của HLU có tính liên thông cao, nên sau khi tốt nghiệp, cử nhân Ngành Luật Thương mại Quốc tế có nhiều cơ hội tiếp tục theo học trình độ cao hơn ở nước ngoài hoặc ở Việt Nam hoặc theo học các ngành/chuyên nhành khác như Ngành Luật, Ngành Kinh doanh Quốc tế, chuyên ngành Kinh tế đối ngoại, chuyên ngành Luật Thương mại Quốc tế .

Được biết, đội ngũ giảng viên (nhân tố quyết định tạo nên chất lượng đào tạo) được cơ cấu từ lực lượng giảng viên cơ hữu của HLU, ngoài ra, các luật sư chuyên nghiệp sẽ được mời tham gia giảng dạy các môn học về kỹ năng của luật gia, nhằm giúp sinh viên sớm rèn luyện năng lực hành nghề ngay sau khi tốt nghiệp. Đối với các môn học tiếng Anh chuyên ngành và các môn được giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh, giảng viên cơ hữu của nhà trường và giảng viên thỉnh giảng trong nước và nước ngoài sẽ cùng phối hợp giảng dạy.

Thông tin thêm các bạn tìm hiểu tại đây

ÁN LỆ TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ CÁC NƯỚC PHÁP, ĐỨC VÀ VIỆC SỬ DỤNG ÁN LỆ Ở VIỆT NAM

THS. NGUYỄN VĂN NAM – Học viện An ninh nhân dân

Lịch sử áp dụng án lệ ở các hệ thống dân luật thành văn ở Châu Âu đã trải qua các thời kỳ từ chỗ thừa nhận án lệ đến thời kỳ vai trò của án lệ bị từ bỏ trong xu hướng pháp điển hoá pháp luật trong thế kỷ XIX. Nhưng trong suốt thế kỷ XX và đến nay, vai trò của án lệ ngày càng được đề cao trong các hệ thống pháp luật dân sự thành văn ở Châu Âu. Bài viết này cho thấy, án lệ đã có một lịch sử tồn tại và phát triển trong hệ thống pháp luật dân luật thành văn của nước Pháp và Đức ở Châu Âu.

I. Án lệ trong truyền thống dân luật của Pháp và Đức

1. Án lệ trong truyền thống dân luật La Mã trước thế kỷ XIX

Sẽ thú vị nếu chúng ta biết rằng, án lệ đã được nhận thức là có một vai trò quan trọng trong pháp luật La Mã, bằng chứng là việc Hoàng đế Severus (cai trị La Mã từ năm 193 đến năm 211) đã cho phép các thẩm phán bổ sung những lỗ hổng của luật thành văn bằng tập quán và thực tiễn xét xử của các vụ việc tương tự (có thể coi như là hình thức án lệ). Nhưng đến năm 529, Hoàng đế Justinian đã cấm các thẩm phán La Mã quyết định các vụ việc mà không dựa vào luật thành văn. Bốn năm sau, Justinian đã khôi phục lại chính sách của Severus bằng việc cho phép các thẩm phán bổ sung những kẽ hở của pháp luật thành văn khi áp dụng nó. Vì vậy mà trong lịch sử pháp luật La Mã, các văn bản tập hợp các bản án và lời phân tích nó (Digest) được coi là có giá trị pháp lý như là luật khi thẩm phán sử dụng nó1.

Vào thế kỷ XIV, Toà án tối cao của giáo hội Công giáo (Rota Romana) ở Roma đã vận dụng các án lệ vào hoạt động xét xử và các án lệ của nó đã được toà án cấp dưới tuân thủ. Cho đến thế kỷ XVIII, khi luật La Mã được hồi sinh ở Châu Âu lục địa, hình thức pháp luật chung ở Châu Âu ra đời (jus commune)2 thì án lệ vẫn được áp dụng phổ biến ở hệ thống pháp luật các nước Châu Âu sử dụng luật La Mã. Nhưng thực tiễn áp dụng án lệ đã từng bị đánh giá thấp khi xu hướng pháp điển hoá pháp luật diễn ra mạnh mẽ ở Châu Âu bắt đầu từ đầu thế kỷ XIX.

2. Vai trò ngày càng quan trọng của án lệ ở Pháp và CHLB Đức sau thời kỳ pháp điển hoá ở Châu Âu thế kỷ XIX

2.1. Án lệ trong pháp luật Cộng hoà Pháp

Dưới ảnh hưởng của Cách mạng tư sản Pháp và các quan điểm tiến tiến của chủ nghĩa triết học khai sáng, nước Pháp đã mở đầu cho xu hướng pháp điển hoá pháp luật ở Châu Âu. Bộ luật Dân sự (BLDS) Pháp 1804 (còn được gọi là BLDS Napoleon), được xem là một sản phẩm lập pháp nổi tiếng của tiến trình pháp điển hoá pháp luật ở Pháp. Tuy nhiên, sự đề cao quá mức vai trò của các bộ luật được pháp điển hoá đã dẫn đến việc xem nhẹ vai trò của toà án trong phát triển án lệ. Điều 5 BLDS Pháp 1804 đã quy định “Cấm các thẩm phán đặt ra những quy định chung có tính chất quy chế để tuyên án đối với những vụ kiện được giao xét xử”. Điều luật này đã gián tiếp cấm việc sử dụng án lệ trong hoạt động xét xử của các thẩm phán ở Pháp. Các thẩm phán Pháp đã gặp rất nhiều trở ngại trong việc áp dụng những quy định mang tính chất khái quát và nguyên tắc trong BLDS 1804. Các học giả Pháp đã chỉ ra, bên cạnh những ưu việt mà pháp điển hoá đem lại như tính thống nhất, bao quát, tính dễ tiếp cận, pháp điển các bộ luật còn bộc lộ các hạn chế cố hữu như: tính không khả thi do các qui định mang tính chung chung, không rõ; tính lạc hậu do không được cập nhật3. Bản chất và lợi ích của việc thừa nhận án lệ đã được nghiên cứu rất nhiều trong luật học của nước Pháp kể từ khi BLDS 1804 ra đời. Portalis là một luật gia có công tham gia xây dựng BLDS năm 1804 đã cho rằng ‘cần phải có án lệ vì luật không thể giải quyết hết mọi vấn đề của BLDS”4. René David nhận xét: bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, ảo tưởng về giá trị của luật thành văn là nguồn luật thuần nhất đã dần bị xoá bỏ5. Trong điều kiện như vậy, vai trò giải thích pháp luật của thẩm phán đã được đề cao để bổ sung những kẽ hở của pháp luật. Một số học giả cho rằng, về bản chất, việc làm luật của thẩm phán là có thể chấp nhận được. “Thật là không thực tế khi nói rằng thẩm phán tuyên bố pháp luật mà không được tạo ra luật. Chúng ta biết rằng, việc áp dụng pháp luật không thể bỏ qua việc giải thích pháp luật”6.

Continue reading

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI: BỒI THƯỜNG TRONG TAI NẠN GIAO THÔNG – RỐI RẮM!

HOÀNG YẾN

Theo luật, ôtô, xe máy là nguồn nguy hiểm cao độ và chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi.

Luật là vậy nhưng thực tiễn giải quyết các tranh chấp bồi thường thiệt hại do ôtô, xe máy gây ra ở các tòa, nhiều vướng mắc đã nảy sinh…

Để công bằng, cần quy định theo hướng nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì sẽ không được bồi thường?

Nhiều chuyên gia nhận xét việc xác định trách nhiệm bồi thường trong các tai nạn giao thông hiện nay có lẽ phức tạp, rắc rối chỉ sau các tranh chấp về đất đai. Thực tiễn xét xử đã chứng minh điều đó, khi rất nhiều bản án của tòa cấp dưới bị cấp trên hủy, sửa vì khác quan điểm vận dụng pháp luật.

Làm sao cho công bằng?

NVA ngụ quận 11 (TP.HCM) mua một chiếc xe tải nhẹ rồi cho B thuê xe theo một hợp đồng dài hạn. B thuê C lái xe để chở hàng hóa. Ngày 25-11-2010, C chạy xe trên đường một chiều đúng quy định. D đang đạp xe, do không rành đường, không để ý nên vô tình đi ngược chiều, đụng phải chiếc xe tải này và bị thương nặng.

Sau đó, D khởi kiện yêu cầu A. và B cùng liên đới bồi thường thiệt hại. Vụ việc đã làm phát sinh hai luồng quan điểm về hướng giải quyết.

Theo quan điểm thứ nhất, khoản 3 Điều 623 BLDS quy định trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi thì chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng phương tiện giao thông vận tải cơ giới cũng phải bồi thường. Trách nhiệm này chỉ được miễn trừ nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại. Như vậy A. (chủ sở hữu xe) và B (người được A. giao chiếm hữu, sử dụng xe) phải liên đới bồi thường cho D vì thiệt hại của D xảy ra không phải là do lỗi cố ý của D.

Ngược lại, quan điểm thứ hai cho rằng người lái xe hoàn toàn không có lỗi trong vụ tai nạn nên không đủ yếu tố làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Nếu tòa bắt A. và B phải liên đới bồi thường cho D sẽ không đảm bảo tính công bằng. Theo một thẩm phán TAND TP.HCM, quy định tại khoản 3 Điều 623 BLDS nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại, tránh việc chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng xe máy, ôtô thoái thác trách nhiệm bồi thường với lý do không có lỗi trong việc quản lý, sử dụng xe. Điều luật cũng đặt ra các trường hợp miễn trừ trách nhiệm là khi thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hay thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác). Chẳng hạn một người bất ngờ lao vào ôtô tự tử thì chủ ôtô, người được giao chiếm hữu, sử dụng ôtô sẽ không phải bồi thường.

Continue reading

CÔNG VĂN SỐ 1154/LĐTBXH-LĐTL NGÀY 18 THÁNG 04 NĂM 2011 CỦA BỘ LAO ĐỘNG, THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI HƯỚNG DẪN CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP THÔI VIỆC

Kính gửi:

Tổng công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam.
(Đ/c: Tòa nhà Vinaconex, 34 Láng Hạ, Đống Đa, Hà Nội)

Trả lời công văn số 0830A/2011/CV-PTNL ngày 31/3/2011 của Tổng công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam về việc hướng dẫn chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội có ý kiến như sau:

1. Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1995, theo đó kể từ ngày này, khi người lao động thôi việc ở doanh nghiệp nào thì thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động ở doanh nghiệp đó, khi chuyển sang làm việc ở doanh nghiệp khác thì thực hiện giao kết hợp đồng lao động mới.

Trường hợp ông Trương Trần Hiển làm việc tại Công ty Thăng Long – Talimex (trước đây là Xí nghiệp sản xuất máy khâu Hà Nội), đến tháng 8/1997 ông Hiển thôi việc (chấm dứt hợp đồng lao động) để chuyển sang Tổng công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam thì tại thời điểm thôi việc (tháng 8/1997, sau ngày Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành), Công ty Thăng Long – Talimex có trách nhiệm giải quyết chế độ trợ cấp thôi việc theo quy định tại điểm c, khoản 3, Điều 10 Nghị định số 198/CP ngày 31/12/1994 của Chính phủ. Tổng công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam không có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cho thời gian ông Hiển làm việc ở doanh nghiệp từ tháng 8/1997 trở về trước.

2. Theo quy định tại điểm c, khoản 3, mục III Thông tư số 20/2007/TT-LĐTBXH ngày 04/10/2007 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thì công ty cổ phần có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cho người lao động từ doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển sang khi người lao động đó thôi việc tại công ty cổ phần, kể cả khoản trợ cấp cho thời gian thực tế làm việc tại doanh nghiệp 100% vốn nhà nước trước đó và thời gian người lao động làm việc tại công ty, đơn vị khác thuộc khu vực nhà nước nhưng chuyển đến công ty 100% vốn nhà nước trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 mà chưa nhận trợ cấp thôi việc.

Như vậy, đối với thời gian từ tháng 9/1997, ông Hiển làm việc theo hợp đồng lao động tại Tổng công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam nay chuyển thành Tổng công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam thì khi chấm dứt hợp đồng lao động, Tổng công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam có trách nhiệm giải quyết trợ cấp thôi việc theo quy định tại Nghị định số 44/2003/NĐ-CP ngày 09/5/2003 của Chính phủ đối với thời gian làm việc tại Tổng công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam (kể cả thời gian làm việc theo hợp đồng lao động tại Tổng công ty trước khi cổ phần hóa).

Continue reading

CÔNG VĂN SỐ 1208/LĐTBXH-KHTC NGÀY 20 THÁNG 04 NĂM 2011 CỦA BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI VỀ VIỆC TRỢ CẤP KHÓ KHĂN CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC, LỰC LƯỢNG VŨ TRANG, NGƯỜI HƯỞNG LƯƠNG VỚI MỨC LƯƠNG THẤP, NGƯỜI HƯỞNG TRỢ CẤP ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG VÀ HỘ NGHÈO CÓ ĐỜI SỐNG KHÓ KHĂN

Kính gửi:

Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

Thực hiện Thông tư số 48/2011/TT-BTC ngày 08/4/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định nhu cầu, nguồn kinh phí và phương thức chi thực hiện trợ cấp khó khăn đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, người hưởng lương có mức lương thấp, người hưởng trợ cấp ưu đãi người có công và hộ nghèo có đời sống khó khăn; Thông tư số 07/2011/TT-BLĐTBXH ngày 15/4/2011 về việc hướng dẫn xác định đối tượng, mức hưởng trợ cấp và tổ chức thực hiện trợ cấp khó khăn theo Quyết định số 471/QĐ-TTg ngày 30/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc trợ cấp khó khăn đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, người hưởng lương hưu có mức lương thấp, người hưởng trợ cấp ưu đãi người có công và hộ nghèo đời sống khó khăn, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội yêu cầu Sở Lao động – Thương binh và Xã hội:

– Căn cứ đối tượng đang hưởng trợ cấp hàng tháng và mức trợ cấp khó khăn quy định tại Thông tư số 07/2011/TT-BLĐTBXH ngày 15/4/2011, tiến hành rà soát, kiểm tra, lập danh sách đối tượng chú ý tránh sai sót, trùng lĩnh và thực hiện chi trả trợ cấp cho đối tượng từ nguồn kinh phí thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công đã được giao năm 2011. Việc chi trả trợ cấp thực hiện như sau:

+ Lần thứ nhất: thực hiện trong tháng 4/2011, mức trợ cấp là 150.000 đồng/người đối với đối tượng quy định tại Khoản 3 Điều 2 của Thông tư số 07/2011/TT-BLĐTBXH ngày 15/4/2011, quân nhân đang hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng theo Quyết định 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008 và công an nhân dân đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 53/2010/QĐ-TTg ngày 20/8/2010; mức trợ cấp là 50.000 đồng/người đối với đối tượng quy định tại Điểm a, b, c Khoản 4 Điều 2 của Thông tư số 07/2011/TT-BLĐTBXH ngày 15/4/2011.

+ Lần thứ hai: thực hiện trong tháng 5/2011, mức trợ cấp là 100.000 đồng/người đối với đối tượng quy định tại Khoản 3 Điều 2 của Thông tư số 07/2011/TT-BLĐTBXH ngày 15/4/2011, quân nhân đang hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng theo Quyết định 142/2008/QĐ-TTg ngày 27/10/2008 và công an nhân dân đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 53/2010/QĐ-TTg ngày 20/8/2010; mức trợ cấp là 50.000 đồng/người đối với đối tượng quy định tại Điểm a, b, c Khoản 4 Điều 2 của Thông tư số 07/2011/TT-BLĐTBXH ngày 15/4/2011.

Continue reading

LUẬT SỐ 66/2011/QH12 NGÀY 29 THÁNG 03 NĂM 2011 VỀ PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Quốc hội ban hành Luật phòng, chống mua bán người,

Chương 1.

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Luật này quy định việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi mua bán người và các hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống mua bán người; tiếp nhận, xác minh, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân; hợp tác quốc tế trong phòng, chống mua bán người; trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương trong phòng, chống mua bán người.

Điều 2. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Bóc lột tình dục là việc ép buộc người khác bán dâm, làm đối tượng để sản xuất ấn phẩm khiêu dâm, trình diễn khiêu dâm hoặc làm nô lệ tình dục.

2. Nô lệ tình dục là việc một người do bị lệ thuộc mà buộc phải phục vụ nhu cầu tình dục của người khác.

3. Cưỡng bức lao động là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm buộc người khác lao động trái ý muốn của họ.

4. Nạn nhân là người bị xâm hại bởi hành vi quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 3 của Luật này.

Điều 3. Các hành vi bị nghiêm cấm

1. Mua bán người theo quy định tại Điều 119 và Điều 120 của Bộ luật hình sự.

2. Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.

3. Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác hoặc để thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

4. Cưỡng bức người khác thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.

5. Môi giới để người khác thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.

Continue reading

LUẬT SỐ 67/2011/QH12KINGÀY 29 THÁNG 03 NĂM 2011 VỀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP

 

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Quốc hội ban hành Luật kiểm toán độc lập,

Chương 1.

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Luật này quy định nguyên tắc, điều kiện, phạm vi, hình thức hoạt động kiểm toán độc lập; quyền, nghĩa vụ của kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam và đơn vị được kiểm toán.

Điều 2. Đối tượng áp dụng

Luật này áp dụng đối với kiểm toán viên, kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam, đơn vị được kiểm toán, tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán và tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến hoạt động kiểm toán độc lập.

Điều 3. Áp dụng Luật kiểm toán độc lập, điều ước quốc tế và các luật có liên quan

1. Tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia hoạt động kiểm toán độc lập trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

2. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.

Điều 4. Mục đích của kiểm toán độc lập

Hoạt động kiểm toán độc lập nhằm góp phần công khai, minh bạch thông tin kinh tế, tài chính của đơn vị được kiểm toán và doanh nghiệp, tổ chức khác; làm lành mạnh môi trường đầu tư; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng; phát hiện và ngăn chặn vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành kinh tế, tài chính của Nhà nước và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Điều 5. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Kiểm toán độc lập là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến độc lập của mình về báo cáo tài chính và công việc kiểm toán khác theo hợp đồng kiểm toán.

2. Kiểm toán viên là người được cấp chứng chỉ kiểm toán viên theo quy định của pháp luật hoặc người có chứng chỉ của nước ngoài được Bộ Tài chính công nhận và đạt kỳ thi sát hạch về pháp luật Việt Nam.

3. Kiểm toán viên hành nghề là kiểm toán viên đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hành nghề kiểm toán.

4. Thành viên tham gia cuộc kiểm toán bao gồm kiểm toán viên hành nghề, kiểm toán viên và các thành viên khác.

Continue reading

LUẬT SỐ 65/2011/QH12 NGÀY 29 THÁNG 03 NĂM 2011 VỀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11,

Điều 1.

Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự:

1. Điều 7 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 7. Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan tổ chức có thẩm quyền

Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được tài liệu, chứng cứ.”

2. Điều 16 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 16. Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng dân sự

Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, người phiên dịch, người giám định, thành viên Hội đồng định giá không được tiến hành hoặc tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.”

3. Điều 21 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 21. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự

1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.

Continue reading

MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP

BÙI ĐỨC HIỂN – Phòng Pháp luật Xã hội và Môi trường, Viện Nhà nước và Pháp luật

Trong công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách để tạo việc làm và bảo đảm việc làm cho người lao động như đẩy mạnh, tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước; xây dựng các đề án, các chương trình giáo dục đào tạo nghề nghiệp cho người lao động; đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài… Đặc biệt, Nhà nước ta đã ban hành pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi pháp luật, vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định cần được hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi cho người lao động và góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước.

1. Thực trạng và những hạn chế của pháp luật về BHTN ở Việt Nam

Thất nghiệp là hiện tượng người lao động bị ngừng thu nhập do không tìm được một việc làm thích hợp trong trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc1. BHTN là sự bảo đảm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị mất việc theo quy định của pháp luật, trên cơ sở đóng vào quỹ BHTN. BHTN là một bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống pháp luật về an sinh xã hội, là một trong những trụ cột, một phần không thể thiếu của bảo hiểm xã hội (BHXH). Khi Nhà nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới, mở cửa phát triển nền kinh tế thị trường, để đảm bảo quyền lợi cho người lao động và đảm bảo phát triển kinh tế hài hòa với xã hội, Quốc hội đã ban hành Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 1994 (sửa đổi, bổ sung vào các năm 2002, 2006, 2007). BLLĐ năm 1994 mặc dù đã có quy định nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động khi thôi việc hoặc mất việc làm thì được hưởng chế độ trợ cấp thôi việc (Điều 42 BLLĐ 1994) và trợ cấp mất việc (Điều 17 BLLĐ 1994), nhưng chưa có quy định về BHTN. Do vậy, một trong những sửa đổi, bổ sung quan trọng trong BLLĐ sửa đổi, bổ sung năm 2002 là việc quy định về chế độ BHTN2 (Điều 140). Đây là một quy định rất chính xác và kịp thời, bởi thực ra, BHTN là một loại hình bảo hiểm chuyên biệt dành cho những người lao động thôi việc hoặc mất việc làm theo quy định pháp luật đã được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng có hiệu quả. Ở nước ta, BHTN ra đời đã tạo thêm một lưới an sinh nhằm hỗ trợ cho người lao động khi bị mất việc có thể vượt qua khó khăn và có cơ hội tìm được việc làm mới. Hơn nữa, BHTN tích hợp trong nó rất nhiều sự ưu đãi, người lao động đủ điều kiện luật định khi bị mất việc có thể được hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp, hưởng bảo hiểm y tế khi bị ốm đau và trong thời gian thất nghiệp còn được hỗ trợ học nghề, tìm kiếm việc làm. Do vậy, BHTN góp phần bảo vệ quyền lợi cho người lao động, đảm bảo công bằng xã hội và phát triển xã hội cân bằng.

Luật Bảo hiểm xã hội ra đời năm 2006. Ngày 12/12/2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 127/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về BHTN; ngày 22/01/2009, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐTBVXH) có Thông tư số 04/2009/TT-BLDTBXH cụ thể hóa các quy định về chế độ BHTN. Đến ngày 16/10/2009, Bộ LĐTBVXH ban hành Thông tư số 34/2009/TT-BLDTBXH sửa đổi một số quy định của Thông tư 04//2009. Ngoài ra, Bộ Tài chính có Thông tư số 96/2009/TT-BTC ngày 20/5/2009 hướng dẫn chế độ tài chính đối với Quỹ BHTN. Các văn bản pháp luật trên đã quy định cụ thể về phạm vi và đối tượng áp dụng BHTN; nguyên tắc của BHTN, điều kiện, trình tự, thủ tục hưởng BHTN, về các chế độ của BHTN, mức, thời gian hưởng BHTN… Những quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước thực hiện quyền lợi cũng như trách nhiệm của mình trong việc tham gia đóng và chi trả BHTN cho người lao động.

Continue reading

TRANH CHẤP VỀ QUYỀN NHÂN THÂN: ĐÒI BỒI THƯỜNG VÌ BỊ CHỦ BẮT KHỎA THÂN

HOÀNG YẾN

Tòa cho rằng người giúp việc đòi 10 triệu đồng tiền bồi thường tổn thất về mặt tinh thần, công khai xin lỗi tại địa phương là không hợp lý. Bà cũng chỉ yêu cầu bà C. cởi đồ ngoài chứ không biết bà C. không mặc đồ trong.

Theo đơn khởi kiện của bà C., cuối năm 2002, bà đến giúp việc cho gia đình bà D. Hai bên thỏa thuận nếu muốn cắt hợp đồng thì phải báo trước một tháng.

Mất trộm nên buộc ôsin cởi đồ…

Tháng 11- 2010, bà D. cho rằng bà trộm cắp tiền nên đã có hành động xúc phạm bà như chửi bới, lục đồ đạc, bắt cởi hết quần áo để kiểm tra và khóa cửa nhốt không cho ra ngoài. Tuy nhiên, công an xác định không có chứng cứ cho thấy bà ăn trộm nên không truy cứu. Ngay sau đó, bà D. đã đuổi việc bà.

Vì thế, bà khởi kiện yêu cầu bà D. phải bồi thường 19 triệu đồng bao gồm 9 triệu đồng tiền lương, trợ cấp thôi việc…; 10 triệu đồng tiền bồi thường tổn thất về mặt tinh thần do bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Đồng thời, bà D. phải công khai xin lỗi bà tại địa phương.

Bà D. trình bày đúng là có nghi ngờ bà C. lấy trộm tiền nên mới dò hỏi. Bà C. đã tự cởi quần áo để bà kiểm tra. Tuy nhiên, lúc này bà cũng chỉ yêu cầu bà C. cởi đồ ngoài chứ không biết bà C. không mặc đồ trong. Sự việc diễn ra trong phòng và chỉ có hai người.

Mặt khác, sau khi làm việc tại cơ quan công an, bà C. về đã tự lấy đồ đạc rời khỏi nhà và nghỉ việc. Bà không đuổi việc mà bà C. tự chấm dứt hợp đồng. Do vậy, bà không đồng ý bồi thường cho bà C.

Tổn hại danh dự người khác

Xử sơ thẩm mới đây, TAND quận 11 (TP.HCM) cho rằng quá trình hòa giải và tại phiên tòa, phía bị đơn thỏa thuận sẽ trả cho nguyên đơn 1,4 triệu đồng lương tháng 11-2010 nên tòa ghi nhận… Tuy nhiên, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà C. đòi bà D. bồi thường do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật mà không báo trước bởi bà C. đã tự ý nghỉ việc. Hơn nữa, quan hệ lao động giữa đôi bên là quan hệ giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động nên không thuộc trường hợp điều chỉnh của quy định này.

Còn việc bà C. đòi bồi thường tổn thất tinh thần 10 triệu đồng, HĐXX nhận định từ khi bị mất trộm đến nay, bà D. không có văn bản hay lời nói khẳng định bà C. lấy trộm. Bà D. báo với công an để truy tìm thủ phạm là việc làm bình thường không trái pháp luật. Công an mời các người liên quan đến làm việc là trách nhiệm của lực lượng này. Như vậy không thể cho rằng bà D. đã vu khống bà C.

Tuy nhiên, việc khám xét người, khám xét chỗ ở của công dân phải do cơ quan có thẩm quyền thực hiện theo trình tự do luật pháp quy định. Pháp luật không cho phép một công dân bình thường có quyền khám xét người, khám xét chỗ ở của người khác. Bà D. thể hiện rõ thái độ nghi ngờ bà C. lấy trộm, yêu cầu cho kiểm tra phòng, kiểm tra người thì rõ ràng đã gây tổn hại đến danh dự, nhân phẩm của bà C. Điều này pháp luật không cho phép, lỗi thuộc về bà D. Thế nhưng bà D. kiểm tra là có sự đồng ý của bà C., khi kiểm tra chỉ có mặt hai người nên mức độ tổn hại về mặt tinh thần đối với bà C. không lớn. Nguyên đơn đòi bồi thường 10 triệu đồng, công khai xin lỗi tại địa phương là không hợp lý. Vì lẽ đó, tòa chỉ chấp nhận một phần yêu cầu, buộc bị đơn bồi thường cho bà C. trên 1,3 triệu đồng (tương ứng với một tháng lương tối thiểu)…

Chỉ cơ quan có thẩm quyền mới được khám người

Pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm và uy tín cá nhân của công dân. Mọi hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của công dân đều bị xử lý theo quy định. Pháp luật nghiêm cấm việc thực hiện các hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền tự do cá nhân và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của tổ chức, cá nhân. Do đó, việc khám người chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người đó có cất giữ công cụ, phương tiện phạm tội hoặc đồ vật, tài sản do phạm tội mà có. Việc khám người chỉ có thể do cơ quan có thẩm quyền tiến hành theo những thủ tục, trình tự chặt chẽ, không được tùy tiện…

Một thẩm phán Tòa Dân sự TAND TP.HCM

SOURCE: BÁO PHÁP LUẬT TPHCM

Trích dẫn từ: http://phapluattp.vn/2011042012154816p1063c1016/doi-boi-thuong-vi-bi-chu-bat-khoa-than.htm

XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH THÀNH VIÊN CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN: GÓC NHÌN TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN

TÁC GIẢ CHƯA CẬP NHẬT

Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là loại hình doanh nghiệp rất phổ biến ở nước ta và nhiều nước trên thế giới. Số lượng công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên được thành lập ngày càng tăng cao trong các năm qua ở Việt Nam.

Công ty TNHH (trách nhiệm hữu hạn) hai thành viên trở lên được hiểu là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, có số lượng thành viên bị giới hạn ở mức tối thiểu là 02 và tối đa là 50. Thành viên công ty có thể là cá nhân, pháp nhân tham gia góp vốn vào công ty. Các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp. Các thành viên bị hạn chế trong việc định đoạt phần vốn góp của mình. Công ty không được phát hành cổ phần

Một câu hỏi đặt ra nhưng chưa thể tìm được câu trả lời thuyết phục từ quy định của pháp luật hiện hành đó là : tư cách thành viên công ty phát sinh khi nào? Việc xác định thời điểm phát sinh tư cách thành viên công ty có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm hưởng các quyền lợi cũng như gánh vác các nghĩa vụ của thành viên. Và trong một số trường hợp, việc xác định thời điểm phát sinh tư cách thành viên (mới) của công ty gắn liền với việc xác định thời điểm chấm dứt tư cách thành viên (cũ) là căn cứ cho việc phân định việc hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ liên quan đến phần vốn góp trong công ty cũng như việc phân định thẩm quyền xét xử, giải quyết các tranh chấp liên quan khi có tranh chấp xảy ra. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin đề cập một số trường hợp xác định tư cách thành viên của công ty TNHH hai thành viên trở lên qua thực tiễn xét xử của Tòa án.

Thứ nhất, trường hợp khi các thành viên thỏa thuận góp vốn để thành lập công ty thì đã phát sinh tư cách thành viên hay chưa?

Để trả lời cho câu hỏi này, chúng tôi xin nêu một vụ việc cụ thể đã được Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết bằng Bản án kinh doanh thương mại số 1851/2008/KDTMST ngày 14/11/2008, vụ việc được tóm tắt như sau: tháng 4 năm 2006, bà Nguyễn Thị Lan, ông Tạ Hùng Quốc Việt, ông Nguyễn Tấn Lộc, ông Nguyễn Phú Tài và bà Đặng Thị Phương Anh cùng nhau bàn bạc và thống nhất là thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất thương mại xuất nhập khẩu Đắc Phúc (viết tắt là công ty Đắc Phúc), dự kiến giao cho ông Lộc làm giám đốc và đại diện theo pháp luật của công ty. Các thành viên cũng thống nhất dự kiến bà Lan sẽ làm chủ tịch hội đồng thành viên, ông Trần Công Minh (do bà Lan giới thiệu) làm thủ quỹ. Để các cổ đông yên tâm góp vốn và thể hiện sự công bằng, các thành viên giao cho ông Tài mở và đứng tên tài khoản, việc rút tiền từ ngân hàng phải có chữ ký của cả ông Tài và ông Minh. Các cổ đông phải nộp một phần tiền trước ngày 10/4/2006 để trang trải cho việc thành lập công ty. Ông Lộc chịu trách nhiệm soạn thảo điều lệ công ty để các thành viên thông qua và đăng ký với sở kế hoạch và đầu tư qua mạng Internet. Ngày 07/4/2006, các thành viên gồm ông Lộc, ông Tài và bà Anh, có cả ông Minh, ông Việt cùng đến Vietcombank – chi nhánh Bình Tây mở tài khoản cho ông Tài đứng tên. Việc nộp tiền được thực hiện như sau : ông Nguyễn Phú Tài nộp 191.000.000đ; bà Đặng Thị Phương Anh nộp 250.000.000đ ; ông Nguyễn Tấn Lộc nộp 250.000.000đ. Sau khi nộp hồ sơ và được cấp biên nhận, Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh phát hiện số CMND mang tên Nguyễn Thị Lan không trùng khớp với số CMND ghi trong sổ hộ khẩu nên yêu cầu bà Lan điều chỉnh hoặc có xác nhận hợp lệ bổ sung hồ sơ thành lập công ty nhưng bà Lan không đáp ứng yêu cầu này. Việc rút tiền từ tài khoản ngân hàng do ông Tài đứng tên để chi tiêu được ông Minh cập nhật vào cuốn sổ riêng do ông Minh giữ và có chữ ký duyệt  của ông Lộc (dự kiến là Giám đốc) trong các khoản tiền rút từ ngân hàng hay chi cho việc thành lập công ty theo thỏa thuận của các thành viên góp vốn. Đến tháng 5/2006, ông Mai Thanh Bình được tuyển làm kế toán trưởng đã thống kê lại chi thu quỹ tiền mặt trong tháng 4/2006, ông Lộc thấy các khoản chi tiêu không rõ từ phía bà Lan, ông Minh nên nhiều lần nhắc nhở kiểm quỹ, quyết toán đối chiếu nhưng hai người không làm. Đến ngày 25/5/2006, bà Lan tuyên bố không thành lập công ty Đắc Phúc và chỉ đạo di dời, tẩu tán tài sản cũng như trả nhà thuê, trốn tránh việc trả lại vốn góp cho các thành viên.

Continue reading

Tìm hiểu pháp luật phá sản TRÊN THẾ GIỚI

PHAN THỊ THU HÀ – Viện Khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao

Trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu hóa ngày nay, nhu cầu xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về kinh tế nói chung và pháp luật phá sản nói riêng luôn được các quốc gia quan tâm, chú ý. Trong bối cảnh đó, Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm đến việc xây dựng, sửa đổi pháp luật, theo đó pháp luật phá sản cũng không là ngoại lệ. Do vậy, việc nghiên cứu, tham khảo pháp luật về phá sản của các nước trên thế giới và trong khu vực có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoàn thiện pháp luật phá sản trong nước.

Đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng các yêu cầu của việc gia nhập WTO và thực hiện các cam kết quốc tế đa phương, song phương của Việt Nam, ngay từ buổi đầu của công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, Việt Nam đã xây dựng và ban hành Luật Phá sản doanh nghiệp (năm 1993). Trải qua 10 năm thi hành, các quy định của Luật này không còn phù hợp với thực tiễn nên Luật Phá sản đó đã được sửa đổi, bổ sung khá cơ bản và toàn diện.

Luật Phá sản năm 2004 được ban hành là kết quả của việc tổng kết thực tiễn sau 10 năm thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, đồng thời cũng là kết quả của việc nghiên cứu, tiếp thu những kinh nghiệm xây dựng pháp luật về phá sản của một số nước trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, trong chuyên đề này chúng tôi tìm hiểu chung (có tính khái quát) về pháp luật phá sản trên thế giới.

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN

Theo quan niệm chung, tình trạng phá sản là hậu quả đư­ơng nhiên của quá trình cạnh tranh, kinh doanh trên thương trường. Việc giải quyết hậu quả của quá trình đó là tất yếu, là nhiệm vụ của bất kỳ quốc gia nào nhằm đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể tham gia kinh doanh, đảm bảo vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

Trải qua quá trình dài của lịch sử phát triển kinh tế, bên cạnh những yếu tố tích cực là thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân thì nền kinh tế cũng xảy ra nhiều biến động, thăng trầm và khủng hoảng. Hậu quả của sự khủng hoảng kinh tế thường kéo theo sự phá sản hàng loạt của các thương nhân.

Để giải quyết hậu quả của kinh doanh thua lỗ, mất khả năng thanh toán, giữa chủ nợ và người mắc nợ đã cùng nhau tìm ra những phương thức giải quyết khác nhau, hoặc là tự giải quyết, hoặc là với sự giúp đỡ của một cá nhân hoặc tập thể nào đó. Tuy nhiên, đôi khi các phương thức giải quyết tự phát không hiệu quả, từ đó phát sinh nhu cầu có những quy định pháp luật và sự can thiệp cần thiết để điều chỉnh, giải quyết hiện tượng phá sản một cách hiệu quả hơn, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội đồng thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan: chủ nợ, người mắc nợ và người lao động.

Continue reading

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn